Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NNPTNT), dự báo khu vực Đồng bằng sông Cửu Long - vựa lúa lớn nhất cả nước, sẽ mất từ 500 nghìn đến 1 triệu ha đất nông nghiệp vào năm 2050 do nước biển dâng, ước tính sơ bộ sẽ gây thiệt hại lên tới 3% GDP.
Nông nghiệp hiện đóng góp khoảng 12% GDP của Việt Nam, cung cấp sinh kế cho khoảng 30% lực lượng lao động. Hiện nay, nhiều doanh nghiệp (DN) Việt Nam đã áp dụng các công nghệ xanh trong nông nghiệp, từ hệ thống tưới nhỏ giọt, công nghệ nhà kính thông minh đến việc sử dụng năng lượng tái tạo trong sản xuất. Các mô hình này đã giúp giảm lượng phát thải CO2, tiết kiệm nước tới 50% và tăng năng suất cây trồng từ 20% đến 30%. Việt Nam cũng đang hướng tới mục tiêu giảm 9% phát thải khí nhà kính vào năm 2030 so với kịch bản cơ sở, đồng thời cam kết đạt phát thải ròng bằng không vào năm 2050. Tuy nhiên theo đánh giá, mô hình tăng trưởng nông nghiệp xanh của Việt Nam hiện nay còn bộc lộ nhiều lo ngại về chất lượng, tính bền vững và vẫn còn nhiều điểm nghẽn.
Điểm nghẽn đầu tiên đó là sản xuất nông nghiệp của nước ta còn nhỏ lẻ, chưa có sự liên kết chặt chẽ sâu về chuỗi sản xuất. Chuỗi liên kết trong sản xuất, trồng trọt nông nghiệp tại Việt Nam hiện nay mới chỉ hình thành ở một số ngành hàng sản xuất nông sản xuất khẩu trọng điểm như lúa, cà phê, hồ tiêu, cao su…Bên cạnh đó, DN trong lĩnh vực nông nghiệp chủ yếu là nhỏ và siêu nhỏ, khả năng hiện đại hóa các thiết bị phục vụ nông nghiệp xanh là rất khó khăn, hạ tầng kết nối, hạ tầng thông tin trong nông nghiệp, nông thôn còn thiếu.
Bà Cao Xuân Thu Vân - Chủ tịch Liên minh Hợp tác xã Việt Nam cho rằng, trong bối cảnh nông nghiệp Việt Nam đang đối mặt với nhiều thách thức, từ biến đổi khí hậu đến cạnh tranh trên thị trường quốc tế, việc tìm kiếm các giải pháp để phát triển chuỗi giá trị nông sản một cách hiệu quả đã trở thành nhiệm vụ cấp bách. Trong đó, việc xây dựng mối liên kết chặt chẽ giữa các tác nhân trong chuỗi giá trị từ người nông dân, hợp tác xã đến DN chế biến và xuất khẩu là một trong những giải pháp quan trọng để đạt được mục tiêu này.
Phó Cục trưởng Cục Trồng trọt (Bộ NNPTNT) Lê Thanh Tùng cũng cho rằng, sự liên kết chặt chẽ giữa các DN đầu vào, vật tư nông nghiệp và các DN thu mua sản phẩm cho nông dân giúp thúc đẩy sản xuất xanh trên phạm vi toàn quốc.
Nhiều ý kiến cũng cho rằng, trên cơ sở đánh giá, tổng kết qua thự tế, Nhà nước cần tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách tạo điều kiện để DN làm tốt vai trò dẫn dắt trong mối liên kết sản xuất, tiêu thụ. Trong đó, chú trọng tới chính sách tín dụng, bao gồm áp dụng mức trần lãi suất cho vay, đơn giản hóa thủ tục cấp vốn, áp dụng ưu đãi cho các mô hình liên kết theo chuỗi giá trị gia tăng…
Đặc biệt, cần có cơ chế, chính sách mạnh mẽ khuyến khích các DN đầu tư phát triển nông nghiệp xanh gắn với phát triển công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn, nhất là các ngành chế biến, tiêu thụ nông, lâm, thủy sản, sử dụng nguyên liệu, lao động tại chỗ, trong đó có ưu đãi đặc biệt thu hút doanh nghiệp về các vùng cao, vùng còn nhiều khó khăn phát triển kinh tế nông, lâm nghiệp.
Theo Thứ trưởng Bộ NNPTNT Phùng Đức Tiến, lợi ích của phát triển nông nghiệp xanh chính là hài hòa các mục tiêu tăng trưởng bền vững, đáp ứng xu hướng tiêu dùng xanh, có trách nhiệm khi giúp giảm ô nhiễm môi trường và bảo vệ sức khỏe con người, đáp ứng được yêu cầu từ các thị trường khố tính…Chính vì vậy, Bộ cũng đã xây dựng và thực hiện nhiều chương trình và kế hoạch hành động khác nhau nhằm hỗ trợ cho quá trình chuyển đổi xanh.
“Trong thời gian tới, Bộ NNPTNT sẽ phối hợp với các cơ quan liên quan nghiên cứu, đề xuất cơ chế, giải pháp chính sách để tạo điều kiện thuận lợi cho người dân, DN trong việc thúc đẩy đổi mới sáng tạo xanh trong nông nghiệp” - Thứ trưởng Phùng Đức Tiến nhấn mạnh.
Nguồn https://baomoi.com/