Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực gắn với việc làm và chuyển dịch cơ cấu lao động nông nghiệp nông thôn hiện nay ở nước ta

Nghị quyết số 19-NQ/TW về nông nghiệp, nông dân, nông thôn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII ban hành ngày 16 tháng 6 năm 2022 đã khẳng định quan điểm: “Nông nghiệp, nông dân, nông thôn là ba thành tố có quan hệ mật thiết, gắn bó, không thể tách rời; có vai trò, vị trí rất quan trọng trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; là cơ sở, lực lượng to lớn trong phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu, giữ vững ổn định chính trị, bảo đảm quốc phòng, an ninh, bảo tồn và phát huy giá trị văn hoá, con người Việt Nam, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế.”1. Do vậy, vấn đề đặt ra hiện nay là phải đào tạo và phát triển được nguồn nhân lực gắn với tạo việc làm và chuyển dịch cơ cấu lao động nông nghiệp nông thôn. Trên cơ sở phân tích thực trạng và những hạn chế, tôi đưa ra một số giải pháp và kiến nghị nhằm góp phần phát triển nguồn nhân lực, đào tạo lao động trong lĩnh vực nông nghiệp nông thôn nhằm giải quyết việc làm và đáp ứng chuyển dịch cơ cấu lao động nông thôn trong giai đoạn hiện nay ở nước ta.

1. Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về đào tạo và phát triển nhân lực cho lao động nông nghiệp, nông thôn

1.1. Cơ sở lý luận về đào tạo và phát triển nguồn nhân lực cho lao động nông nghiệp, nông thôn

Nông nghiệp là ngành sản xuất vật chất cơ bản, không những đảm bảo an ninh lương thực, thực phẩm, cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp chế biến hàng tiêu dùng mà còn đóng góp vào phát triển kinh tế, ổn định chính trị và phát triển văn hóa xã hội của một đất nước. Do vậy, bất kỳ một quốc gia nào cũng đầu tư cho phát triển nông nghiệp nông thôn, đặc biệt là các nước đang phát triển. 

Việt Nam là một nước mà dân số làm nông nghiệp chiếm hơn 50% tổng dân số Việt Nam, đất canh tác và đất rừng chiếm 60% tổng diện tích đất đai của Việt Nam, giá trị sản lượng nông nghiệp chiếm khoảng 30% GDP. Xuất khẩu nông sản cũng có vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển xã hội của Việt Nam, ngành nông nghiệp đã tạo ra nhiều cơ hội việc làm, nâng cao chất lượng cuộc sống của nông dân, thúc đẩy ổn định xã hội. Khí hậu nhiệt đới của Việt Nam tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển nông nghiệp, tiềm năng sản xuất và xuất khẩu nông sản sang các nước là rất lớn. Việt Nam đã trở thành một trong 19 nước sản xuất nông nghiệp lớn nhất thế giới và đặt mục tiêu lọt vào nhóm 15 nước xuất khẩu nông sản lớn nhất cả nước vào năm 2030.2

Phát triển nguồn nhân lực nông thôn được hiểu là làm tăng giá trị của người LĐNT trên các mặt kiến thức, kỹ năng, thái độ và tâm hồn, thể lực… làm cho LĐNT có khả năng làm việc cao nhất, đóng góp có hiệu quả nhất vào phát triển kinh tế - xã hội nông thôn. Ở phương diện nội dung, phát triển nguồn nhân lực nông thôn là phát triển cả về mặt số lượng và chất lượng lao động của LĐNT. Số lượng thể hiện ở sự hài hòa, cân đối, không thừa, không thiếu trong các ngành nghề kinh tế nông thôn, làm cho tỷ lệ thất nghiệp hoặc thiếu việc làm thấp, tỷ lệ có việc làm cao ở nông thôn. Về chất lượng, ngoài các vấn đề về chăm sóc sức khỏe, giáo dục đạo đức, văn hóa cho người lao động còn là việc đào tạo ở các trình độ cao, đào tạo nghề, bồi dưỡng các kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp mới, các kiến thức khoa học công nghệ, tác phong lao động, thái độ, ý thức lao động,… cho người LĐNT. Phát triển nhân lực nông nghiệp, nông thôn sẽ góp phần nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả của LĐNT, tạo sự phát triển cho nông nghiệp tiếp cận hiện đại, xây dựng nông thôn mới.3

Nguồn: GS.TS Lê Quân - Giám đốc Đại học Quốc gia Hà Nội, Ủy viên Hội đồng Lý luận Trung ương

Nghị quyết số 19-NQ/TW về nông nghiệp, nông dân, nông thôn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII ban hành ngày 16 tháng 6 năm 2022 đã khẳng định quan điểm: Nguồn lực của đất nước phải tiếp tục ưu tiên đầu tư cho nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Bảo đảm phát triển hài hoà giữa nông thôn và thành thị, giữa các vùng, miền, địa phương; gắn kết chặt chẽ giữa phát triển công nghiệp, dịch vụ với nông nghiệp, giữa phát triển nông thôn bền vững với quá trình đô thị hoá theo hướng “nông nghiệp sinh thái, nông thôn hiện đại, nông dân văn minh”. Nông dân là chủ thể, là trung tâm của quá trình phát triển nông nghiệp, kinh tế nông thôn và xây dựng nông thôn mới. Gắn xây dựng giai cấp nông dân với phát triển nông nghiệp và quá trình công nghiệp hoá, đô thị hoá nông thôn. Nông nghiệp là lợi thế quốc gia, trụ đỡ của nền kinh tế. Phát triển nông nghiệp hiệu quả, bền vững, tích hợp đa giá trị theo hướng nâng cao giá trị gia tăng, năng lực cạnh tranh, gắn với đẩy mạnh phát triển công nghiệp chế biến, bảo quản sau thu hoạch và phát triển thị trường nông sản cả ở trong nước và ngoài nước; bảo đảm an toàn thực phẩm, an ninh lương thực quốc gia, bảo vệ môi trường sinh thái; khuyến khích phát triển nông nghiệp xanh, hữu cơ, tuần hoàn. Chuyển mạnh tư duy từ sản xuất nông nghiệp sang phát triển kinh tế nông nghiệp gắn với nhu cầu thị trường. Phát huy lợi thế vùng, miền, địa phương, tổ chức sản xuất kinh doanh nông nghiệp theo chuỗi giá trị, dựa trên nền tảng khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo. Quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội nông thôn cần chú trọng phát triển hài hoà, đồng bộ cả nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ, gắn với cơ cấu lại lao động, tạo sinh kế, việc làm tại chỗ, nâng cao thu nhập cho nông dân và cư dân nông thôn, bảo đảm quốc phòng, an ninh, củng cố hệ thống chính trị cơ sở, nhất là các địa bàn chiến lược trọng điểm, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc. Vận động đoàn viên, hội viên và nhân dân tích cực tham gia phát triển nông nghiệp, nông thôn.

Nghị quyết số 19-NQ/TW đề ra mục tiêu và tầm nhìn như sau:

- Mục tiêu tổng quát đến năm 2030: Nông dân và cư dân nông thôn có trình độ, đời sống vật chất và tinh thần ngày càng cao, làm chủ quá trình phát triển nông nghiệp, nông thôn. Nông nghiệp phát triển nhanh, bền vững, hiệu quả, bảo đảm vững chắc an ninh lương thực quốc gia, quy mô sản xuất hàng hoá nông sản ngày càng lớn, bảo đảm môi trường sinh thái, thích ứng với biến đổi khí hậu. Nông thôn phát triển toàn diện, có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội đồng bộ, hiện đại, cơ cấu kinh tế và hình thức tổ chức sản xuất hợp lý, môi trường sống an toàn, lành mạnh, giàu bản sắc văn hoá dân tộc; an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội được giữ vững; tổ chức đảng và hệ thống chính trị ở cơ sở trong sạch, vững mạnh.

- Mục tiêu cụ thể đến năm 2030:

+ Tốc độ tăng trưởng GDP ngành Nông nghiệp phấn đấu đạt bình quân khoảng 3%/năm; tăng năng suất lao động nông nghiệp bình quân từ 5,5 - 6%/năm.

+ Tốc độ tăng trưởng công nghiệp, dịch vụ nông thôn phấn đấu đạt bình quân trên 10%/năm.

+ Số xã đạt chuẩn nông thôn mới trên 90%, trong đó, phấn đấu 50% số xã đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao; số đơn vị cấp huyện đạt chuẩn nông thôn mới trên 70%, trong đó phấn đấu 35% số đơn vị cấp huyện đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao.

+ Thu nhập bình quân của người dân nông thôn năm 2030 phấn đấu tăng gấp 2,5 - 3 lần so với năm 2020.

+ Tỉ lệ hộ gia đình nông thôn được sử dụng nước sạch theo quy chuẩn đạt 80%.

+ Tỉ trọng lao động nông nghiệp trong tổng lao động xã hội dưới 20%; bình quân hằng năm đào tạo nghề cho khoảng 1,5 triệu lao động nông thôn.

+ Tỉ lệ che phủ rừng ổn định ở mức 42%, nâng cao năng suất, chất lượng rừng; tỉ lệ chất thải rắn sinh hoạt nông thôn được thu gom, xử lý theo quy định đạt 90%.

1.2. Thực trạng và những vấn đề đặt ra trong đào tạo và phát triển nguồn nhân lực nông nghiệp nông thôn ở nước ta hiện nay

            Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực trong nông nghiệp và nông thôn thực sự được chú ý từ khi chuyển từ nền kinh tế tự cung tự cấp sang kinh tế thị trường, từ nền sản xuất nhỏ lẻ sang nền sản xuất tập trung lớn, áp dụng công nghệ khoa học tiên tiến và hội nhập quốc tế. Đứng trước tình hình đó, đòi hỏi chất lượng người lao động phải được nâng cao về mọi mặt.

                - Nhu cầu về đào tạo, giải quyết việc làm là rất lớn: Trong những năm qua, mặc dù quá trình đô thị hóa và hội nhập kinh tế đã thúc đẩy quá trình chuyển dịch lao động từ nông thôn ra thành thị, tuy nhiên, lao động vẫn tập trung ở khu vực nông thôn rất cao, tiếp tục gây sức ép về nhu cầu đào tạo và giải quyết việc làm tại chỗ cho lao động nông thôn. Nhìn chung, lực lượng lao động ở khu vực nông thôn, chiếm khoảng gần 70%. Con số này có xu hướng giảm qua các năm nhưng vẫn ở mức cao. Cả nước hiện có khoảng 17 triệu thanh niên nông thôn có độ tuổi từ 15-30, chiếm 70% số thanh niên và 60% lao động nông thôn. Tuy nhiên, 80% trong số này chưa qua đào tạo chuyên môn. Đặc điểm này là trở ngại lớn cho lao động nông thôn trong tìm kiếm việc làm.5

            Sự di cư của lao động nông thôn gây tình trạng thiếu việc làm cho thành thị, đồng thời gây thiếu hụt lao động ở nông thôn: Theo Tổng cục Thống kê 6, năm 2020, số người di cư từ 15 - 30 tuổi là 877,8 nghìn người và phần lớn là di chuyển đến khu vực thành thị (69,0%). Điều này cho thấy thiếu lao động trẻ ở nông thôn, do vậy phần lớn hiện nay tại nông thôn là người già, phụ nữ, trẻ em. Ngoài ra, ở khu vực nông thôn về cơ bản là thuần nông, lao động theo thời vụ, là hoạt động rất vất vả, phụ thuộc nhiều vào thời tiết, ngành nghề phát triển chậm, nên sau khi thu hoạch mùa màng, nhiều người không có việc làm, phần lớn phải đi tìm việc ở các đô thị và khu vực tập trung công nghiệp. Dự báo, đến năm 2025, tỷ lệ lao động trong nông nghiệp sẽ chỉ còn dưới 30% và tiếp tục giảm xuống dưới 15% vào năm 2035.6

- Chất lượng lao động cho nông nghiệp, nông thôn còn thấp, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển: Nguồn cung lao động luôn xảy ra tình trạng thiếu nghiêm trọng lao động kỹ thuật trình độ cao, lao động một số ngành dịch vụ và công nghiệp mới. Tỷ lệ lao động được đào tạo nghề còn thấp, kỹ năng, tay nghề, thể lực và tác phong lao động còn yếu nên khả năng cạnh tranh thấp. Năm 2020, tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng, chứng chỉ từ sơ cấp trở lên tại khu vực nông thôn là 16%, thấp hơn nhiều so với tỷ lệ của thành thị (39,3%) và thấp hơn so với chung của cả nước (24,6%)6. Tình trạng thể lực của lao động Việt Nam ở mức trung bình kém, cả về chiều cao, cân nặng cũng như sức bền, sự dẻo dai, chưa đáp ứng được cường độ làm việc và những yêu cầu trong sử dụng máy móc thiết bị theo tiêu chuẩn quốc tế. Kỷ luật lao động của người Việt Nam nói chung chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra của quá trình sản xuất công nghiệp. Một bộ phận lớn người lao động chưa được tập huấn về kỷ luật lao động công nghiệp. Phần lớn lao động xuất thân từ nông thôn, nông nghiệp, mang nặng tác phong sản xuất của một nền nông nghiệp tiểu nông, tùy tiện về giờ giấc và hành vi. Người lao động chưa được trang bị các kiến thức và kỹ năng làm việc theo nhóm, không có khả năng hợp tác và gánh chịu rủi ro, ngại phát huy sáng kiến và chia sẻ kinh nghiệm làm việc. Đây là thách thức lớn trong việc nâng cao chất lượng lao động nông nghiệp nông thôn, nhất là trong bối cảnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông thôn và tác động mạnh của cuộc Cách mạng công nghiệp.

            Quy mô đào tạo các ngành nghề trong lĩnh vực nông nghiệp ở các cơ sở đào tạo ngày càng giảm mạnh và chưa đáp ứng thực tiễn: Sự dịch chuyển cơ cấu lao động từ nông nghiệp sang các lĩnh vực công nghiệp dịch vụ là phù hợp với chủ trương của Đảng, Nhà nước ta, do vậy việc các ngành nghề trong lĩnh vực nông nghiệp cũng bị thu hẹp. Tuy nhiên, rất nhiều ngành nghề cần thiết trong lĩnh vực nông nghiệp (trồng trọt, chăn nuôi, nông nghiệp công nghệ cao, chế biến nông, lâm sản …..) để phát triển nền nông nghiệp hiện đại, xây dựng nông thôn mới chưa được chú trọng.

Lao động đã qua đào tạo, nhất là lao động chất lượng cao không muốn về nông thôn: Thực trạng này xuất phát từ thực tế khách quan là nông thôn không có đầy đủ cơ sở vật chất, kỹ thuật để sử dụng người lao động có kỹ năng nghề cao. Trong khi đó, thu nhập từ lĩnh vực nông nghiệp còn thấp, giá cả sản phẩm nông nghiệp luôn trong tình trạng được mùa mất giá trong khi đó các loại chi phí về vật tư, dịch vụ nông nghiệp  khá đắt đỏ nên giá trị công lao động trong sản xuất nông nghiệp không cao. Mặt khác là do sự ít đa dạng về sản xuất và hoạt động kinh doanh, sự không hoàn thiện của sản xuất dẫn đến việc nhu cầu sử dụng lao động kỹ thuật cao và phức tạp đang ít.

            - Ứng dụng công nghệ 4.0 trong nông nghiệp còn gặp nhiều khó khăn: Lao động chính tại các thôn làng chủ yếu là ông già, bà già, trẻ em, chính điều này dẫn đến không có lao động trẻ, lao động chất lượng, nên việc tiếp thu các tiến bộ khoa học hạn chế. Thêm vào đó, quy mô sản xuất còn nhỏ lẻ, phân tán chủ yếu theo hình thức hộ gia đình làm cho việc áp dụng KH&CN còn gặp nhiều khó khăn. Doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc đầu tư nghiên cứu, tiếp cận, chuyển giao các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất do các doanh nghiệp trong lĩnh vực nông nghiệp phần lớn có quy mô nhỏ, khó tiếp cận được nguồn vốn lớn, dài hạn, lãi suất thấp để đầu tư vào KH&CN. Trong khi việc sử dụng công nghệ hiện đại, công nghệ cao đòi hỏi cần có lực lượng lao động có kỹ thuật, có kỹ năng, có hiểu biết về công nghệ.

            - Sự đầu tư của Nhà nước cho nông nghiệp, nông thôn và nông dân vẫn còn quá ít: Mặc dù đã có các chương trình, dự án, đề án về đào tạo nghề cho lao động nông nghiệp nông thôn, song nguồn lực đầu tư cho các nội dung này còn hạn chế, dẫn đến việc đào tạo nguồn nhân lực cho nông nghiệp, nông thôn chưa đạt được hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển nền nông nghiệp hiện đại và xây dựng nông thôn mới.

2. Một số giải pháp về đào tạo và phát triển nguồn nhân lực cho nông nghiệp và nông thôn

- Tăng cường đầu tư cho giáo dục đào tạo; thực hiện tốt công tác hướng nghiệp, phân luồng từ bậc phổ thông tại khu vực nông thôn

+ Rà soát lại quy hoạch các ngành nghề phục vụ nông nghiệp, nông thôn; ưu tiên phát triển các ngành nghề nông nghiệp công nghệ cao, công nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản; các ngành nghề công nghiệp, dịch vụ gắn với hoạt động sản xuất của nông nghiệp, ở nông thôn; Quy hoạch đào tạo nghề cần gắn với lợi thế nông nghiệp của mỗi vùng, nhằm khai thác tốt nhất nguồn lao động tại chỗ sau quá trình đào tạo.

+ Nâng cao chất lượng công tác hướng nghiệp, gắn hướng nghiệp với trải nghiệm nghề nghiệp thực tế tại các cơ sở giáo dục, các doanh nghiệp ở địa bàn nông thôn để học sinh có nhận thức đúng đắn về nghề nghiệp; đẩy mạnh phân luồng, có sự phân loại học sinh theo tiêu chuẩn hợp lý để hướng học sinh vào cấp học và ngành học phù hợp, để tránh lãng phí trong đào tạo; xây dựng các mô hình đào tạo cho học sinh tốt nghiệp trung học cơ sở vào học các trình độ, vừa học văn hóa THPT vừa học nghề, tạo nhiều cơ hội học tập cho học sinh.

+ Chuyển mạnh phương thức đào tạo theo nhu cầu của doanh nghiệp và thị trường để nâng cao chất lượng đào tạo, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu lao động nông nghiệp gắn với giải quyết việc làm. Mục tiêu đào tạo cần chuyển dần từ chỉ chuyên đào tạo kỹ năng lao động nghề nghiệp sang việc cung cấp hàng loạt các kỹ năng tổng hợp khác. Phương pháp đào tạo cần được thay đổi theo hướng tăng thực hành. Muốn vậy, cơ sở đào tạo cần có cơ sở vật chất kỹ thuật tốt. Hiện tại, điều này khó đáp ứng được ở các cơ sở đào tạo. Để cải thiện, cần phải dựa vào cơ sở kỹ thuật của các doanh nghiệp. Điều này là lý do vì sao trong đào tạo nghề nhất thiết phải có sự liên kết giữa các cơ sở đào tạo nghề với các doanh nghiệp, các xưởng thủ công hoặc các trang trại, thậm chí là các hộ nông dân.

+ Nâng cao trình độ của đội ngũ giáo viên dạy nghề, thu hút giáo viên giỏi có tay nghề cao còn là điều rất khó do lương thấp, công việc thiếu ổn định. Những người có chuyên môn giỏi thường không chọn làm việc tại các trường, cơ sở dạy nghề. Hướng ưu đãi về tiền lương thường khó thực hiện do học nghề của lao động nông thôn hiện nay đang được khuyến khích với mức học phí thấp, khó có thể tăng thu cho các cơ sở đào tạo để thu hút giáo viên. Đây cũng là vấn đề chính phủ cần xem xét để có chính sách hỗ trợ hợp lý.

+ Rà soát, hoàn thiện hệ thống chính sách hỗ trợ về đào tạo nghề cho lao động nông nghiệp nông thôn. Nghiên cứu, xây dựng mức hỗ trợ và hình thức hỗ trợ theo hướng hỗ trợ theo định mức của từng nhóm nghề phù hợp với thực tế.

+ Đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong đào tạo nghề đối với lao động nông nghiệp, nông thôn. Phối hợp với các tổ chức quốc tế đánh giá chất lượng lao động ngành nông nghiệp; xây dựng các tài liệu đào tạo nghề nông nghiệp tiên tiến, chuyển đổi số, đáp ứng các tiêu chuẩn, quy chuẩn quốc tế. Tổ chức các diễn đàn quốc tế, chia sẻ kinh nghiệm trong đào tạo nâng cao chất lượng, kỹ năng cho lao động ngành nông nghiệp. Hợp tác đưa lao động nông nghiệp đi học tập và lao động theo diện hợp đồng có thời hạn ở nước ngoài.

+ Điều tra, đánh giá về chương trình đào tạo, thường xuyên điều chỉnh, bổ sung cho phù hợp với nhu cầu sản xuất nông nghiệp.

            - Hoàn thiện các chính sách thu hút người lao động và đầu tư cho phát triển nông nghiệp nông thôn

            + Thực hiện chính sách thúc đẩy công nghiệp ở vùng nông thôn, xây dựng nhiều chính sách ưu đãi cho các doanh nghiệp về đầu tư ở nông thôn. Rà soát, hoàn thiện hệ thống chính sách hỗ trợ về đào tạo nghề cho lao động nông nghiệp nông thôn.

            + Có chính sách tiền lương, chính sách phúc lợi tốt để tạo thu nhập cao cho lao động hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp nông thôn.

            - Đẩy mạnh nghiên cứu và ứng dụng các mô hình tiên tiến, hiệu quả

            Thúc đẩy việc ứng dụng KH&CN vào trong lĩnh vực nông nghiệp, mở rộng quy mô sản xuất, xây dựng chuỗi liên kết và tiêu thụ sản phẩm; Tăng cường và củng cố đội ngũ làm công tác khoa học để nghiên cứu ra các sản phẩm mới phục vụ cho việc tăng năng suất, chất lượng, hiệu quả trong sản xuất nông nghiệp; Tăng cường nguồn vốn đầu tư cho các chương trình khuyến nông, chuyển giao ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật; Khuyến khích, tạo điều kiện gắn kết giữa nông dân và doanh nghiệp, đảm bảo đầu ra cho sản phẩm; Đẩy mạnh việc lai tạo giống mới với khả năng thích ứng với biến đổi khí hậu và đem lại năng suất cao.

- Tiếp tục đẩy mạnh các chương trình, đề án, dự án cho phát triển nông nghiệp nông thôn

3. Kết luận

            Nông nghiệp nông thôn nước ta đang từng bước khởi sắc đi lên, trong giai đoạn hiện nay đã hình thành vả phát triển nhiều vùng sản xuất theo công nghệ cao, áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật hiện đại. Tuy nhiên, quy mô các vùng sản xuất này chưa lớn, việc áp dụng khoa học kỹ thuật đang trong quá trình vừa học tập vừa áp dụng. Do vậy, cần thúc đầy quá trình đào tạo và phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu đổi mới. Nguồn nhân lực không chỉ có kiến thức kỹ năng năng nghề mà tổng hợp cả những kỹ năng về giao tiếp, kinh doanh và kỷ luật trong lao động. Để thực hiện được điều này, đòi hỏi tất cả các cấp, ban ngành và các cơ sở nghiên cứu, đào tạo cùng doanh nghiệp, các đoàn thể cùng đồng lòng xây dựng và thực hiện.

                                                                                                  Viết bài: Trần Thị Thúy Nga

            Tài liệu tham khảo

1. Nghị quyết số 19-NQ/TW về nông nghiệp, nông dân, nông thôn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.

2. https://luatduonggia.vn/phan-tich-nhung-thuan-loi-thien-nhien-de-phat-trien-nong-nghiep

3. https://tuyengiao.vn/khoa-giao/giao-duc/phat-trien-nguon-nhan-luc-dao-tao-nghe-gan-voi-tao-viec-lam-chuyen-dich-co-cau-lao-dong-nong-thon-viet-nam

4. https://tapchicongthuong.vn/bai-viet/thuc-trang-va-giai-phap-dao-tao-nghe-cho-lao-dong-nong-nghiep-nong-thon-viet-nam-hien-nay

  1. https://laodongphothong.vn/thuc-trang-luc-luong-lao-dong-viet-nam-va-mot-so-van-de-dat-ra
  2. Tổng cục Thống kê (2020), Báo cáo điều tra lao động việc làm năm 2020.

Bài viết khác